Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng

Thương hiệu: No Brand | Xem thêm Sách Tôn Giáo - Tâm Linh No Brand  Xem thêm Sách Tôn Giáo - Tâm Linh bán bởi Nhà Sách Vĩnh Phú 

Mô tả ngắn

Mua Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng ở đâu?
: Còn hàng
: Lazada.vn
61.000 ₫
** Quét mã QR bằng Zalo để mua trên điện thoại
Shopee Sale

Giới thiệu Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng

Tác giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm
Dịch giả: Thích Tâm Trí
NXB: Phương Đông
Hình thức: Bìa Mềm
Số trang: 334
Kích thước: 14 x 20 cm

CHƯƠNG I. Lịch Sử Và Hoàn Cảnh Tây Tạng


TIẾT 1 : Lịch Sử Tây-Tạng.



Không rõ sử cổ đại của dân tộc Tây Tạng như thế nào, nay chỉ dựa vào những ghi chép trong cổ sử Trung Quốc để có được những hiểu biết về dân tộc Tây Tạng.

Theo truyền thuyết vì ba mối nguy nên vua Thuấn phải đánh dẹp Tam Miêu, đó chẳng qua là Hán tộc mượn cớ để chinh phạt Miêu tộc và tiến sâu vào lãnh thổ Tây Tạng. Nhân đó mở ra mối quan hệ qua lại giữa hai dân tộc Hán-Tạng. Theo sự ghi chép của chính sử, thì phải đợi đến khi nhà Đường mở nước Tây Tạng mới có sự tiếp xúc với nội địa Trung Quốc. Theo “Tân Đường thư, Thổ Phồn truyện” phần mở đầu viết: “Thổ Phồn vốn là một chi hệ của Khương tộc, buổi đầu tộc Khương có hơn một trăm năm mươi giống, ở rãi rác khắp vùng Hà, Niết, Giang, Dân. trong đó phát triển nhất là giống Khương-Đường-Mao sống ở vùng Tích Chi và Thuỷ Tây. Vị tị tổ có tên là Cốt-Đề-Bột-Tất-Dã đã cùng một số tộc Khương chiếm đất làm địa bàn cư trú”. Chữ Bột khi phát âm gần giống chữ Phồn, vì thế con cháu họ tự xưng là Thổ Phồn nhưng lại mang họ Bột Tất Dã. Theo “Cựu Đường thư” phần nói về Thổ Phồn : “Thổ Phồn ở về phía tây Trường An tám nghìn dặm”. Đất Tây Khương xưa vốn là đất Hán, nhưng chủng tộc bị lãng quên nên không còn nhớ nguồn gốc phát tích; hoặc có thể gọi họ là hậu duệ của chi hệ Lợi Dã Cô ở Nam Lương, Đột Phát; lại do chữ Đột Phát mà chuyển âm thành Thổ Phồn. Về mặt vị trí địa lý thì Thổ Phồn chính là tộc người Khương. Nguyên vì hiện nay trong số các tộc người Khương ở tỉnh Thanh Hải có một chi hệ có tên là “Ngang”, đây là chi hệ mà từ thời Tần Hiến Công, ông này đã đưa các bộ tộc của mình đi về phương Nam, chia ra ở khắp vùng Hà Tây đạt đến số nghìn dặm. Nói chung họ là các tộc người Khương từ thời Nam Bắc triều, và họ lấy Lạp Tát(Lasha) ngày nay làm trung tâm để kiến lập nước Thổ Phồn, có điều là từ đó họ không còn giao thông với Trung nguyên.

Vào thời vua Đường Thái Tông, thế lực nước Thổ Phồn rất mạnh, nên sử sách mới bắt đầu ghi chép về Thổ Phồn. Đến đời vua Nguyên Ý Tôn, Hốt Tất Liệt dùng vũ lực sát nhập Tây Tạng vào bản đồ Trung Quốc và gọi Tây Tạng là Thổ Phồn hoặc Tây Phồn. Lúc Minh Thành Tổ đại định thiên hạ, bấy giờ Tây Tạng được gọi là Ô-Tư-Tạng. Các tên gọi trên là do triều Nguyên thiết lập cơ cấu hành chính của họ ở địa phương Tây Tạng mà ra. Có đến ba lộ tuyên uý sứ ty là Ô Tư Tạng, Nạp Lý và Cổ Lổ Tôn, người của ba lộ này đều do phủ Nguyên soái phái đến. Người dân Tạng phát âm hai chữ Ô Tư là “Veä” (Usu), nhân đó còn có tên là Vệ-Tạng, nghĩa của chữ Ô Tư là trung tâm và chữ Tạng có nghĩa là thanh tịnh, ý nói Tây Tạng là “Phật quốc tịnh độ”. Tây Tạng còn mang tên của một Châu, Châu này dùng để chỉ địa phương Lạp Tát, bởi vị trí địa lý của Tây Tạng nằm về biên thuỳ phía tây Trung Quốc, do vậy đời nhà Thanh gọi châu này là Tây Tạng, cũng hàm ý Tây Tạng là “tây phương tịnh độ”. Nhân đó, người Tây Tạng tự gọi dân tộc mình là “Bố-Đặt, và nước mình là nước Bod-(Kyi)yul, người tây phương gọi Tây Tạng là Tibet, còn Trung Quốc dịch chữ Bod-(Kyi)yul là “Đồ-Bố-Đặt” hoặc “Thổ-Bố-Đặt”. Nguyên nhân của các tên gọi trên đều có quan hệ đến việc chuyển âm mà ra. Người Tây Tạng đọc chữ Phồn thành chữ Bố-Đặt (Bod), hai chữ Bố Đặt có nghĩa là “Phật Đà Quốc”. Điều quan trọng là do đâu mà nhà Đường lại thêm chữ Thổ vào trước chữ Phồn? Đây là vấn đề mà đến nay vẫn chưa có thuyết nào giải thích. Cứ theo Cựu Đường Thư và cổ sử Tây Tạng được viết bằng Phạn văn, thì người Tây Tạng gọi dân tộc mình là “Đột-Phát-Lợi Lộc Cô Tử Tôn”, lại cũng do chữ Đột chuyển âm thành chữ Phồn. Nhà Nguyên dùng Mông Cổ ngữ là Hô Thổ Phồn đọc thành Đồ Bố Đặt hoặc Thổ Bố Đặt, trong khi nguyên âm của nó là Tobed mà người Tây phương dịch là Tibet. Điều đó cho thấy việc chuyển âm được diễn ra ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau của Tây Tạng. Chung quy là do người Tây Tạng tự cho đất nước mình là “Phật Đà Quốc” mà ra.

Đem việc chuyển âm ra khảo sát, thì Tân Đường Thư cho rằng vấn đề là do chữ “Phát” của người Phát Khương chuyển thành chữ “Phồn”. Căn cứ những khảo sát về chuyển âm, thì chẳng có gì phải nghi khi hai chữ Phật Đà (Buddha) được người Tây Tạng đọc thành Bố Đặt, nhân vì Phạn ngữ cũng gọi Tây Tạng là Bộc Tra (Bhota), chỉ có tên gọi Thổ Phồn là mới được dùng từ thời sơ Đường, còn việc Phật giáo được truyền vào Tây Tạng thì đã có lịch sử và có thể khảo sát. Ở vào thời sơ Đường không rõ người Tây Tạng nhằm vào thời gian nào để tự xưng đất nước mình là “Phật Đà Quốc”? Đây là điều không dễ tra cứu. Ngoài ra, Tây Tạng còn có những tên gọi như “Tuyết Hữu quốc” (Gans-Can-Yul) “Tuyết Cốc quốc” (Gans-ljons-Yul) và “Xích Diện” (Gdon-Dmar)v..vv…
TÂY TẠNG TRƯỚC TRIỀU NGUYÊN


Trước thời nhà Đường, Tây Tạng tuy có thành lập vương quốc nhưng vẫn chưa ra khỏi cục diện còn mang tính bộ lạc. Do đó, không thể gọi Tây Tạng là một vương quốc thống nhất.Đến khi Tây Tạng Vương Thống đời thứ ba mươi là Khí Tông-Lộng Tán (tức Tùng Cán Cang Bố-Sron-btsan-sgam-po) lên ngôi, bấy giờ dân tộc Tạng mới nhân vào vũ lực cường thịnh của mình mà làm nên việc lớn, thậm chí họ thường cướp phá vùng biên cương nhà Đường; có những trận hai bên đánh nhau đến nay vẫn còn âm hưởng. Kết cục, vua Đường-Thái-Tông phải dùng phương thức “Liên Hôn” nhằm tranh thủ hoà bình cho cõi biên thuỳ. Năm Trinh Quán thứ mười lăm (641), vua Đường đem tôn nữ là công chúa Văn Thành gả cho vua Tây-Tạng. Trước đó không lâu cũng với phương thức liên hôn, vua Tây Tạng (Tạng vương) đã cưới con gái của quốc vương nước Ni-Bạc-Nhĩ là Ba Lợi Khố Cơ (Bhrkuti), cho thấy thời ấy quốc thế của Tây Tạng rất mạnh. Do hai vị công chúa người nước ngoài đều là tín đồ kiền thành của Phật giáo, và cả hai đều đến từ những nước đã có nền văn hóa rất cao. Cũng từ đó Tạng vương bắt đầu nghe theo sự khuyến khích của hai người vợ người nước ngoài.Ôâng cho thỉnh tăng già người Hán và Aán đến Tây Tạng hoằng pháp, đồng thời phái quan đại thần là Đoan Mỹ Tam Bồ Đề (Thon-mi-sandhota) cùng với mười tám người đến Ấn Độ lưu học, những người này sau khi học xong vềû lại Tây Tạng, họ dùng Phạn văn (Deva nàgari) làm cơ sở để sáng tạo ra mẫu tự Tạng, rồi dùng Tạng văn vừa được chế tác để phiên dịch kinh Phật. Đích thân Tạng vương cũng tự mình học tập cách sử dụng Tạng văn; cũng từ đó Tây Tạng mới khởi sự tiến vào thời đại văn minh.

Năm Cảnh Vân nguyên niên (710), vua Đường Duệ Tông đem công chúa Kim Thành gả cho Tây Tạng vương thống đời thứ ba mươi lăm là Tạng vương Khí Lệ Súc Tán. Đương thời về mặt quân sự giữa hai nước Hán-Thổ luôn có sự cấu kết với nhau, và đối với công việc hoà bình giữa hai nước thì sự đóng góp của hai vị công chúa là không nhỏ. Về phương diện văn hóa, hai vị công chúa cũng đem những sách như :”Mao Thi””Xuân Thu”và “Lễ ký” du nhập vào Tây Tạng. Về sau vào thời vua Đường Đức Tông, Kiến Trung năm thứ tư (783), và Đường Mục Tông, năm Trường Khánh nguyên niên (821), hai nước Đường - Thổ Phồn ký minh ước hoà bình, minh ước nầy được khắc trên bia đá, bia hiện nay vẫn còn và được đặt trước cung Bố Đạt Lạp với tên gọi là “Sinh Cửu liên minh bi”, bia được lập vào những năm niên hiệu Trường Khánh.

Thời vua Đường Văn Tông, năm Khai Thành thứ ba (838), nhằm vào thời Tây Tạng vương thống đời ba mươi chín là Lãng Đạt Ma lên ngôi Tán Phổ (tức Tạng vương). Đây là ông vua theo tín ngưỡng nguyên thủy của Tây Tạng là Bổng-giáo, vì vậy ông ra sức tiêu diệt Phật giáo. Năm Hội Xương thứ hai (842) vua Võ Đế nhà Đường cũng tàn diệt Phật giáo, khoảng cách về thời gian giữa hai ông vua nầy là không xa. Kể từ Tạng vương Lãng Đạt Ma phá Phật, cục diện chính trị Tây Tạng bị lâm vào trạng thái phân manh, và tình trạng nầy kéo dài cả trăm năm hơn, khiến Tây Tạng bị rơi vào thời kỳ hắc ám, trong khi đó nhà Đường thì ngày càng tiến gần đến suy vong, nhân đó mà sức mạnh lập quốc của nhà Tống càng lúc càng lớn mạnh nhưng lại ẩn mình dưới lớp võ nhà Đường, cho nên mối quan hệ giữa hai nước Đường-Thổ Phồn bị gián đoạn và sử sách cũng không dựa vào đâu để ghi chép.

Lịch Sử Phật Giáo Tây Tạng

Chi Tiết Sản Phẩm

Thương hiệu No Brand
SKU l1061888431
ISBN ISSN 64531245312
d 2918